Hôm tối thứ tư, hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua dự luật nhằm thành lập một ủy ban đặc biệt chuyên nghiên cứu về khả năng chính phủ Hoa Kỳ sẽ phải bồi thường nhân phẩm cho người gốc nô lệ như thế nào mà những dân biểu gốc phi châu của đảng dân chủ cho rằng, việc bồi thường nhân phẩm cho người gốc nô lệ ở Mỹ sẽ giúp gắn trách nhiệm cho những lỗi lầm mà người gốc da trắng trong quá khứ đã phạm phải, đồng thời tạo nên sự thông hiểu cho thế hệ ngày nay về tầm ảnh hưởng của nô lệ đối với nạn kỳ thị chủng tộc lên người gốc phi châu như thế nào.
Nạn nô lệ ở Hoa Kỳ khởi đầu từ cuộc thám hiểm châu mỹ của Christopher Columbus khi chính ông là kẻ mua bán nô lệ từ châu phi nhưng khi đặt chân lên đất Mỹ, mà ông tưởng lầm là đến Ấn Độ, ông xem những người thổ dân trên đất Mỹ là những người có khả năng cung cấp việc phục dịch và tay nghề cho người da trắng. Mặc dù trong lịch sử thế giới, Christopher Columbus là người khám phá ra vùng Bắc Mỹ, nhưng thực chất, ông lại là kẻ buôn nô lệ và không còn được xem là một anh hùng thám hiểm nữa.
Sau thời gian phát triển vùng đất do người thổ dân đang sinh sống, những người da trắng từ Châu Âu và Anh Quốc, xuyên suốt từ thế kỷ 17 đến 18, trong thời gian đô hộ Châu Phi, đã bắt những người gốc phi châu làm nô lệ và đưa sang Hoa Kỳ để làm nô lệ. Theo lịch sử Hoa Kỳ, việc mua bán nô lệ chính thức khởi sự từ thành phố Jamestown, tiểu bang Virginia năm 1619, thời gian này, Virginia đang là 1 trong 13 thuộc địa của Anh Quốc, khi 20 người nô lệ gốc phi châu vừa được đưa vào hải cảng được một người da trắng mua để về làm nô lệ.
Việc mua bán nô lệ từ Châu Phi sang Châu Âu thời gian này đang nở rộ vì kiếm rất nhiều tiền cho những chủ da trắng, chỉ mua một lần là kẻ nô lệ phải phục vụ miễn phí cho đến chết. Để phát triển 13 tiểu bang thuộc địa mà nước Anh vừa đô hộ, những điền chủ, những giới chức Anh và người chủ da trắng rất cần đến lượng nhân công đưa từ Châu Phi sang. Vì là nô lệ, nên họ làm việc theo lời chủ một cách dễ dàng, đơn giản và không thể chống đối. Mặc dù nước Mỹ có thể đưa công nhân rẻ mạt từ Châu Âu sang để làm việc và phục dịch, nhưng với nô lệ thì rẻ hơn nhiều, đã vậy không bị đòi hỏi sự công bằng của các quyền của người lao động, vì vậy thế kỷ thứ 17 đến 18 là thời kỳ vàng son của nạn buôn nô lệ của Hoa Kỳ. Phần lớn nô lệ gốc phi châu phải làm việc trong đồn điền trồng thuốc lá, ngũ cốc và vườn rau quả, tập trung ở các vùng bờ biển phía Nam của tiểu bang Maryland, Virginia và Georgia.
Tình trạng nô lệ bắt đầu trở thành đề tài được thảo luận khi quân đội Anh ngày càng ra tay đàn áp những người địa phương sống trong các tiểu bang thuộc địa. Đây là những người da trắng, định cư từ chuyến tàu đầu tiên Mayflower và từ đợt di cư Châu Âu sang. Họ không phải là những người buôn nô lệ, nhưng nhận thức, chính mình bị quân Anh đối xử cũng không khác gì nô lệ, nên họ tranh đấu đòi độc lập, và việc giải phóng khỏi ách đô hộ của quân Anh cũng như sự giải phóng nô lệ khỏi bàn tay chủ nhân da trắng.
Sau khi thoát khỏi ách độ hộ của quân Anh, vấn đề nô lệ đã dẫn đến cuộc nội chiến tương tàn giữa phe muốn giữ nô lệ và phe chống nô lệ. Vào thời điểm này ông Abraham Lincoln, người thuộc đảng Cộng Hòa được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ, ông là người ủng hộ việc giải phóng nô lệ và chỉ 3 tháng sau 7 tiểu bang miền Nam đã tách khỏi vùng liên minh, tiếng Anh là Confederate States of America. Vùng liên minh là tập hợp những người ủng hộ sở hữu nô lệ, vì vậy lá cờ liên minh Confederate đã bị gán ghép vào sự liên hệ với nô lệ và kỳ thị chủng tộc.
Vào thời điểm dẫn đến cuộc nội chiến, vào ngày 1 tháng 1 năm 1863, tổng thống Abraham Lincoln ra bản tuyên cáo giải phóng nô lệ, để cho phép tất cả người nô lệ được tự do. Thời điểm này nước Mỹ đang có đến hơn 3 triệu người nô lệ gốc phi châu khi họ được tự do cũng là thời điểm thành phần sở hữu nô lệ chống đối và dẫn đến nội chiến. Sau khi chiến thắng vĩ đại kết thúc nội chiến, chính phủ mới thông qua tu chính án thứ 13 năm 1885 để chính thức công nhận quyền công dân của người nô lệ và từ đó họ không còn bị xem là kẻ nô lệ của nước Mỹ nữa.
Hoàng Trọng Thụy